GIÁ TRỊ VĂN HOÁ VĂN NGHỆ : LƯỢNG VÀ CHẤT (GS: Hà Minh Đức)
Bất kỳ một thành tựu, một giá trị văn hóa văn nghệ nào cũng thể hiện và
được đánh giá ở hai phạm vi lượng và chất.
Lượng
và chất trước hết là vấn đề của đời sống. Về nhận thức đó là hai phạm
trù của triết học luôn tác động và chuyển đổi cho nhau. Trong quá trình
chuyển đổi quan trọng nhất là khâu lượng biến thành chất. Như một quy
luật thường thấy trong đời sống cũng như trong triết học lượng luôn
biến đổi thành chất nhưng có trường hợp lượng có thể gia tăng nhưng
không thể biến thành chất. Đấy là khi trong lượng không tiềm ẩn và chứa
đựng yếu tố cần thiết của chất. Khi đó quá trình diễn ra chỉ là những
con số cộng kế tiếp. Lượng biến thành chất là thời điểm có ý nghĩa nhất
cho mọi hoạt động vật chất và tinh thần. Đó là giây phút chín của sáng
tạo như một quả chín dậy hương thơm, Archimède reo lên khi tìm ra chân
lý khoa học, Einstein phát hiện ra luật tương đối sau bao nhiêu năm
tháng tìm tòi khổ công.
Lượng
biến thành chất ghi nhận sự thắng thế, sự thăng hoa của giá trị đích
thực khác biệt với cái hàng ngày quen thuộc, bình thường.
Mối quan hệ giữa lượng và chất thể hiện trong nhiều lĩnh vực, có thể liên hệ trong đời sống và văn hóa văn nghệ.
Với
quốc gia: Những nước đất rộng người đông như Nga, Trung Quốc, Mỹ... lại
có trình độ phát triển cao của dân trí nên sức mạnh được nhân lên từ
nhiều phía. Nhưng cũng không nhất thiết đất rộng người đông là có sức
mạnh nhất là khi dân trí kém. Nhiều nước châu Phi đất rộng, lại có
nhiều mỏ vàng, kim cương nhưng vẫn còn nghèo khổ. Một quốc đảo như
Singapore(1) chỉ
có 632 cây số vuông hay Hồng Kông 1074 cây số vuông nhưng là miền đất
rất phát triển, giàu có và thịnh vượng. Đất rộng là một tiêu chí, một
điều kiện cho sự phát triển nhưng nhiều khi chưa phải là quan trọng
nhất. Lượng phải biến thành chất mới có giá trị trong phát triển. Muốn
thế phải biết tổ chức lực lượng, liên kết các thành tố để tạo nên sức
mạnh.
Về quân sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu Phép dùng binh của ông Tôn Tử nhà
quân sự sinh hơn 2000 năm trước của Trung Hoa và khen nhiều nguyên tắc
đến nay vẫn đúng, vẫn hay. Phép đánh bằng mưu, đánh bằng lửa, phép
chiến tranh - đều không chỉ dựa vào số đông mà quyết định thắng lợi.
Biết lấy yếu thắng mạnh, ít thắng nhiều, chiến tranh du kích của ta
phải chăng cũng dựa trên nguyên tắc chất thắng lượng. Khi bàn về quân
sự có thể nêu dẫn chứng về đội quân Mamơlúc. Một lính Mamơlúc thắng một
lính Pháp, mười lính Mamơlúc thắng mười lính Pháp nhưng một trăm lính
Pháp lại thắng một trăm lính Mamơlúc. Sự liên kết có tổ chức của các cá
nhân đã thắng lực lượng đông nhưng kém tổ chức.
Trong
cuộc tranh chấp và chạy đua giữa lượng và chất bao giờ phần thua cũng
thuộc về lượng. Nói về giáo dục thì vấn đề chất và lượng càng có ý
nghĩa khi nghiên cứu sự phát triển giáo dục của một trường, một vùng,
một đất nước. Một số đường hướng chiến lược giáo dục của ta vẫn lấy
lượng là chính. Tình trạng mở tràn lan các trường đại học ở khắp các
tỉnh trong điều kiện thiếu thầy, thiếu phương tiện, chạy theo thành
tích ảo, chạy theo số lượng. Thế nào là một trường đại học? Đơn vị
trường cao cấp ấy phải có chuẩn về thầy, về điều kiện tổ chức. Có lẽ
nào chỉ có hai ba thầy giáo có trình độ tiến sĩ là đủ mở một trường đại
học? Trước đây khi có sự chuyển đổi cơ học từ chức danh phó tiến sĩ
thành tiến sĩ nên có người nói là ngủ một đêm từ
phó tiến sĩ thành tiến sĩ. Và trong năm qua khi Hà Tây sát nhập vào Hà
Nội cũng có người bộc lộ niềm vui "Mơ ước mãi mà không được, tự nhiên
ngủ một đêm thành người Hà Nội”. Những niềm vui ngẫu nhiên ấy ở nước
nào cũng có nhưng ở ta phổ biến hơn. Lại có trường đại học khi được mở
chỉ lưa thưa vài tiến sĩ nhưng rồi tìm cách liên kết mời thầy thỉnh
giảng và tổ chức đào tạo cao học, đã có hàng trăm người học Thạc sĩ
nhất là tiến sĩ phải được đào tạo bài bản có chất lượng. Thực ra chức
danh Thạc sĩ cũng có giá lắm. Thời trước cách mạng nhiều cuốn sách giáo
khoa có giá trị, tác giả chỉ có chức danh cử nhân khoa học. Thầy giáo
Ngụy Như Kon Tum cố giám đốc Đại học Tổng hợp cũng chỉ có bằng Thạc sĩ
khoa học. Ngày nay có tình trạng bằng cấp mất giá, hay nói theo ngôn
ngữ hiện nay là lạm phát. Chúng ta giàu nhiệt tình, ham thành tích, ham
các kỷ lục nhưng sức có hạn. Có lần một vị lãnh đạo nêu yêu cầu cho
giáo dục là phải tạo được hai trường đại học có tầm vóc lớn, hai quả
đấm quốc tế. Hai mươi năm rồi từ lời nói ấy hai trường phát triển và
tiêu biểu cho hai đầu đất nước, nhưng chưa thể nói là hai quả đấm quốc
tế. Không thể đơn giản khi nghĩ đến hai chữ quốc tế. Chúng ta với nhiều
nỗ lực đã dành được một số chuẩn quốc tế rất đáng ca ngợi nhất là về
xuất khẩu gạo, cà phê, hồ tiêu, nhiều mặt hàng khác thành tích của
chúng ta còn khiêm tốn thậm chí yếu kém, cần phải hiểu mình để phát
triển, tránh chủ quan. Đời sống được nâng cao, văn hóa phát triển,
nhiều loại hình nghệ thuật cũng phát triển. Tuy nhiên, lượng và chất
chưa giữ được tương quan hợp lý. Số lượng các nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ
phát triển đột biến. Đó là điều hay. Có no ấm, có vui sướng mới dễ sinh
văn thơ nhạc họa. Nhạc sĩ, họa sĩ cũng như các nhà thơ đều nhiệt tình
tham gia sáng tác nhưng chưa có nhiều tác phẩm giá trị. Điện ảnh cũng
trong tình trạng tương tự "Trong nhiều năm khi tổng kết có thể dễ chỉ
ra những phim xem được nhưng lại khó tìm thấy những phim đỉnh cao,
những phim thật sự xuất sắc...”(2). Cũng không dễ trong phim ảnh lúc nào cũng có được những tác phẩm như Cánh đồng hoang rồi Chị Tư Hậu. Những
cốt truyện phim hay được khai thác trực tiếp từ tác phẩm của các nhà
văn Nguyễn Quang sáng, Bùi Đức Ái. Cộng với tài đạo diễn của Hồng Sến,
diễn xuất của Lâm Tới, Trà Giang,... tất cả góp phần trực tiếp tạo nên
thành công của các bộ phim. Ở một khu vực khác là kiến trúc, và chúng
ta thu hẹp bàn luận trong phạm vi kiến trúc chùa chiền để dễ so sánh
với quá khứ. Có một tâm lý thưởng thức nặng về lượng mà xem nhẹ về
chất. Nói đến quả chuông hay pho tượng Phật thì trước tiên chú ý đến
khối lượng, cân nặng, hơn là vẻ đẹp và giá trị nghệ thuật. Những pho
tượng Phật như tượng Phật bà trăm tay nghìn mắt, tượng Các vị La Hán chùa Tây Phương,...
đều không to nhưng giá trị nghệ thuật lại rất cao và các pho tượng Phật
ở một số chùa hiện đại khó so sánh được về giá trị nghệ thuật. Nói cho
đủ, nếu đã quan tâm đến lượng thì cả quá khứ lẫn hiện tại, chùa chiền
và tượng Phật của chúng ta không dễ so sánh với các nước Ấn Độ, Trung
Quốc, Mi-an-ma.
Ở
một phạm vi khác Việt Nam là một đất nước đẹp, con người và thiên nhiên
được bạn bè ca ngợi. Trong khu vực Đông Nam Á người Việt Nam cũng được
xem là đẹp. Nét mặt sáng, da trắng, đôi mắt đẹp, vẻ hồn nhiên chân
tình, nên cũng là miền đất của nhiều cô gái đẹp. Cái đẹp chưa được tôn
vinh trong nhiều thập kỷ chiến tranh kéo dài. Năm 1988 Báo Tiền Phong mở
đầu cho việc thi hoa hậu và kế tiếp hai năm một lần. Đó là điều hay cần
ghi nhận. Nhưng rồi các cuộc thi hoa hậu theo nhau diễn ra dồn dập với
chất lượng không cao. Thi hoa hậu chắc là đem đến niềm vui và nhiều vẻ
đẹp văn hóa. Tuy nhiên sự chuẩn bị thường chưa kỹ, nóng vội, nên các
giải đạt được của hoa hậu Việt Nam ở nước ngoài thường thấp, thứ bậc
đạt được cao nhất trong khoảng chỉ từ 15 đến 20. Các cô gái Việt Nam có
vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng, thường gặp trong cuộc sống hàng ngày nhưng
từ đó để có những hoa hậu có tầm cỡ phải dày công chăm sóc, luyện tập
về nhiều mặt.
Qua một vài phạm vi đề cập cũng thấy giá trị văn hóa văn nghệ những
năm gần đây còn thiên về lượng mà kém về chất. Nhiều tác phẩm văn nghệ
được giải thưởng hàng năm trong văn nghệ thường nhanh chóng bị lãng
quên. Những giá trị văn hóa văn nghệ nếu được kết tinh sẽ tồn tại như
những chuẩn mực bền vững và chúng ta có quyền tự hào như di sản văn hóa
văn nghệ của dân tộc. Theo dòng thời gian những tác phẩm trung bình
thậm chí khá sẽ lặng lẽ trôi vào lãng quên sau khi nếu có, giúp ích cho
nhiệm vụ chính trị xã hội trong một thời điểm nào đó. Chiếm lĩnh được
chất lượng các tác phẩm với số trang không nhiều như Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, Tắt đèn, Việc làng của Ngô Tất Tố, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Chí Phèo của
Nam Cao vẫn có giá trị và gây ấn tượng lâu dài với người đọc. Nhiều khi
trong một đời văn rất dài, nhiều tác phẩm, cái được ghi nhận không phải
là số cộng của tác phẩm trung bình, mà phải có những sáng tác vượt lên
về chất như truyện ngắn và tiểu thuyết Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Vũ Như Tô và Sống mãi với thủ đô
của Nguyễn Huy Tưởng. Nhà văn Nguyễn Khải sinh thời có lúc tâm sự chân
thành về chuỗi tác phẩm viết theo thời cuộc tuy sắc sảo nhưng chỉ là một cộng một cộng một nhưng lại có trường hợp như Lưu Quang Vũ trong một thời gian không dài nhiều tác phẩm có giá trị xuất hiện khá tập trung như: Hồn Trương Ba da hàng thịt (1984), Nguồn sáng trong đời (1985), Tôi và chúng ta (1985), Khoảnh khắc và vô tận (1986), Lời thề thứ 9 (1988)... Trong Văn học Việt Nam hiện đại có tác phẩm lớn tỏa sáng một đời văn như Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, Lửa thiêng của Huy Cận, Thơ thơ và Gửi hương cho gió của Xuân Diệu, Số đỏ, Giông tố của
Vũ Trọng Phụng. Và trong phạm vi hẹp hơn, một bài thơ, một truyện ngắn
thật xuất sắc cũng giữ cho nghiệp văn đứng lại được với thời gian.
Sự
phát triển của văn hóa Việt Nam thời kỳ hiện đại có nhiều điều kiện mở
ra những viễn cảnh và vận hội mới, nhưng thành tựu chưa cao. Những
nguyên nhân nào đã hạn chế sự phát triển và khả năng khắc phục? Phải
chăng về quan niệm chỉ đạo chúng ta chưa xem hoạt động văn hóa văn nghệ
có đặc tính chuyên nghiệp và thành quả tạo ra không dễ dãi, ngẫu nhiên.
Mỗi công trình có giá trị văn hóa trong quá khứ đều có một lai lịch của
quá trình hình thành, điều kiện xã hội thuận lợi, sự ủng hộ về vật chất
tinh thần của chính quyền và đặc biệt hình bóng đằng sau là một tài
năng, chủ nhân thực sự của công trình nghệ thuật. Hoạt động sáng tạo
nghệ thuật tinh vi và mang tính chuyên nghiệp cao. Đơn giản hóa quá
trình sáng tác dễ rơi vào sơ lược, nghèo nàn. Đường lối văn hóa văn
nghệ của nhà nước đúng đắn, thoáng mở và khích lệ, nhưng nếu cán bộ
lãnh đạo văn hóa không chuyên và không có kinh nghiệm lãnh đạo sẽ hạn
chế kết quả văn hóa văn nghệ. Nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ không
thành công vì người chỉ huy kém. Văn hóa văn nghệ nằm trong khu vực tư
tưởng, nên đã có quan niệm đồng nhất việc lãnh đạo văn hóa văn nghệ với
một số ngành hoạt động về tư tưởng và kết quả không trách khỏi hạn chế.
Hai
là tình trạng không có chuẩn mực trong văn hóa văn nghệ, chúng ta không
có thước đo chính xác. Với các ngành khoa học hoặc kỹ thuật, tiêu chuẩn
chính xác, mọi việc rõ ràng minh bạch hơn. Ngoài yếu tố thời gian và
công chúng chúng ta chưa có những chuẩn mực trong hoạt động văn hóa văn
nghệ. Thời gian thì phải chờ đợi, công chúng thời hiện đại lại dễ phân
tán thành những nhóm khác nhau. Văn hóa văn nghệ có lúc xây dựng trên
khu đền thiêng của ảo tưởng, lãng đãng của xứ mơ hồ và nơi bình địa
thiếu vắng chủ, nên các tiêu chuẩn khó xác lập. Ngay ở Pháp một người
nổi danh như Honoré de Balzac cũng bị Sainte Beuve chê và xem như con
mồi mà ông săn đuổi. Lev. Tolstoi cũng không phục tài của Shakespeare.
Nhà thơ Chế Lan Viên cho rằng vấn đề đánh giá văn học là rất khó "Ấn Độ
hai lần đánh giá Tagore, lần đầu đánh giá trật và ảnh hưởng sai đến
đường lối của Đảng Ấn. Đảng Pháp đánh giá hai lần
Victo Huygo, lần sau đề cao V. Huygo trong thời kỳ Đại chiến”. Trong
văn thơ Việt Nam Chế Lan Viên và Xuân Diệu hai nhà thơ thường có nhiều
ý kiến trái chiều nhau về thơ. Chế Lan Viên chê thơ Xuân Diệu nhiều
chất văn xuôi và hay lặp lại ý và ngôn từ, Xuân Diệu trả lời là "chất
văn xuôi chính là sự sống và không dễ có trong thơ và thơ có lặp lại
mới có nhạc điệu hấp dẫn. Có cái lặp lại không hứng thú, có cái lặp lại
thú vị như trai gái hôn nhau. Xuân Diệu bảo chúng tôi tranh luận và
khác ý nhau trên những đỉnh cao...”(3). Đấy là câu chuyện của những tài năng.
Thứ
ba là xu hướng bình quân chủ nghĩa phát triển và ảnh hưởng khá nặng nề
trong đời sống cũng như trong hoạt động văn hóa văn nghệ. Mọi người
trong cuộc sống hôm nay đều có mơ ước thành đạt, phát triển khả năng.
Đó là nguyện vọng hợp lý, chính đáng, và số đông đều có điều kiện biểu
thị ước mơ đó và phần không nhỏ đã thành sự thật. Con người thành đạt
và sẽ thành đạt ngày càng đông hơn. Họ thường có thiên hướng đánh giá
cao bản thân mình và không dễ chấp nhận những "đỉnh cao” khác, nhất là,
khi giá trị thật còn mơ hồ không rõ rệt. Từ đó dễ nảy sinh sự dung hòa
trong không khí vui vẻ cả làng. Phải chăng đó là một nguyên nhân nảy
sinh và tồn tại chủ nghĩa bình quân. Chủ nghĩa bình quân càng có cơ sở
phát triển trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ nơi không có chuẩn mực cụ
thể, và theo thời gian thường có những đổi thay trong cách đánh giá các
tác phẩm văn hóa văn nghệ. Xóa nhòa và lẫn lộn các ranh giới là dấu
hiệu xuống cấp của văn hóa văn nghệ, là kéo mọi giá trị trở về với mặt
bằng xuất phát có tính bình quân chủ nghĩa.
Thứ
tư là không thể chờ đợi và xem thời gian như người trọng tài duy nhất
để phân định lượng và chất trong hoạt động văn hóa văn nghệ. Theo những
biến động của lịch sử và các diễn biến của các sự kiện chính trị, văn
hóa văn nghệ có lúc như con thuyền bập bềnh trên sóng, trôi dạt không
thấy được bến bờ. Thơ mới và Tự lực văn đoàn được
hoan nghênh từ mấy năm đầu , những năm ba mươi thế kỷ hai mươi. Song
phải sáu mươi năm thăng trầm mới trở về được ngôi vị cũ và định vị giá
trị qua các cuộc hội thảo về Tự lực văn đoàn năm 1989 và sáu mươi năm
thơ mới năm 1992. Có những trường hợp thời gian lật ngược ván bài,
chuyển từ không khí hoan nghênh sôi nổi một thời sang chiều vắng lặng
của sự lãng quên. Cần có sự đánh giá kịp thời hơn qua "phê bình nóng”
thẳng thắn, minh bạch, đâu là chất, là giá trị của hoạt động tinh thần.
Có thể có ý kiến khác nhau đối lập nhau, đó là chuyện bình thường,
nhưng thực sự không khí tranh luận khoa học sẽ góp phần tìm ra chân lý.
Cần chú ý tiếp nhận ý kiến của công chúng nhất là công chúng hôm nay có
trình độ học thức, có tri thức nhiều chuyên nghành và nhiều người cũng
say mê nghệ thuật. Cần phải chủ động tìm nhiều cách để lấy được ý kiến
chính xác phong phú của công chúng.
Những
vấn đề đặt ra về giá trị văn hóa văn nghệ - chất và lượng có ý nghĩa
thiết thực cho sự phát triển văn hóa văn nghệ hiện nay và lâu dài hơn
cho mai sau1
|