ấy công trình lý luận văn học xuất bản ở Nga những năm gần đây
Những
ai từng tiếp xúc hay có quan tâm tìm hiểu khoa nghiên cứu văn học ở Nga
hẳn đều có thể ghi nhận rằng lý luận văn học là một hoạt động đã để lại
nhiều ảnh hưởng sâu đậm trên đời sống tinh thần của đất nước này. Sau
những biến đổi căn bản trong xã hội, ảnh hưởng đó ít nhiều bị phai nhạt
vào thập niên cuối của thế kỷ XX. Nhưng bên cạnh một số tín niệm và
khái quát lý luận đã bị vượt qua, những gì thật sự là giá trị của lý
luận văn học xô-viết vẫn tiếp tục được đón lấy, kế thừa và cải biến để
cùng đồng hành với trí thức Nga trong thế kỷ XXI.
Hơn
nữa, giới lý luận văn học Nga đâu phải chịu ngủ yên. Vào giai đoạn
chuyển tiếp của xã hội, trong đó diễn ra nhiều sự đảo lộn, sự sắp xếp
lại mà trật tự mới đích thực chưa thành hình, họ vẫn nỗ lực tìm tòi,
phát hiện và cách tân nhằm nâng cao chất lượng của lý luận văn học để
theo kịp với thế giới đương đại. Thứ nhất, đó là cố gắng góp phần với
giới văn học sử nhằm khôi phục trọn vẹn bộ mặt của di sản văn học Nga
nhằm hoàn chỉnh một lịch sử tương đối trung thực về nó, là điều mà
trước đây, dưới chính quyền xô-viết, giới nghiên cứu đã nhiều lần lên
tiếng mong mỏi một cách bức thiết. Thứ hai, đó là cố gắng nắm bắt với
tất cả sự nhạy cảm tình hình sáng tác hết sức đa dạng, phức tạp và có
thể nói là rối rắm của tiến trình văn học Nga hậu xô-viết và hậu cải tổ
trong bối cảnh chịu sự tác động mạnh mẽ của văn học đương đại thế giới.
Thứ ba, đó là cố gắng hiện đại hóa lý luận văn học, làm cho những khái
quát lý luận uyển chuyển và có sức sống hơn, và nhất là đổi mới việc
giảng dạy lý luận văn học trong nhà trường đại học.
Không thể
cắt nghĩa sự vận động và phát triển của tư duy lý luận tách rời khỏi
bối cảnh của hoạt động sáng tác. Những năm 90 thế kỷ trước, nước Nga đã
chứng kiến sự ra đời của nhiều hiện tượng, khuynh hướng văn học vượt ra
ngoài khuôn khổ của truyền thống, đòi hỏi sự lý giải và đánh giá của
giới nghiên cứu. Chỉ tính riêng trong thực tiễn văn xuôi những năm
tháng này, nhiều vấn đề lý luận mới đã nảy sinh. Chẳng hạn đối với
khuynh hướng "văn xuôi tân cổ điển”, người ta thấy xuất hiện nhiều dòng
phong cách khác nhau: phong cách nghệ thuật - chính luận, phong cách
hiện thực "bạo liệt”, phong cách hiện thực tình cảm - lãng mạn… Khuynh
hướng văn xuôi ước lệ - ẩn dụ thì đặt ra vấn đề về vai trò của các yếu
tố truyền thuyết, thần thoại, huyền ảo và mối quan hệ của chúng trong
toàn bộ thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Ngoài ra còn có loại hình văn
xuôi lịch sử, văn xuôi "tự nhiên”, văn xuôi hài hước…[1]
Đặc biệt, trong văn xuôi cũng như trong thơ, trào lưu hậu hiện đại đã
từng bước hình thành, hoặc tự phát, hoặc tự giác, tùy theo từng trường
hợp nhà văn, thể hiện một cách phản ứng với truyền thống văn học Nga,
đồng thời vẫn giữ một khoảng cách với chủ nghĩa hậu hiện đại phương Tây [2].
Trong
số các nhà văn hậu hiện đại, có những người lặng lẽ sáng tạo và cho
công bố những tác phẩm mới, lại có một số người lớn tiếng bày tỏ thái
độ cực đoan, muốn "chôn vùi” văn học xô-viết, muốn đưa Gorki, Esenin,
Maiakovski, Solokhov vào viện bảo tàng. Thái độ đó khiến họ bị dư luận
gọi là "phái RAPP mới” để cho thấy sự gần gũi với quan điểm hư vô chủ
nghĩa của Hội các nhà văn vô sản Nga (viết tắt là RAPP), hoạt động vào
cuối những năm 20 – đầu những năm 30 thế kỷ trước, mà lịch sử đã chứng
minh là sai lầm.
Các nhà lý luận văn học Nga không thờ ơ trước
tình hình đó. Những cuộc tranh luận trên các báo và tạp chí đã nổ ra.
Nhưng điều quan trọng là giới nghiên cứu, phê bình đã bình tĩnh và
khách quan ghi nhận những khuynh hướng mới xuất hiện trong đời sống văn
học và bước đầu đưa ra những khái quát lý luận. Chúng tôi đặc biệt chú
ý là các hiện tượng và xu hướng mới này không chỉ được giới thiệu cho
công chúng ngoài xã hội quan tâm đến văn học, mà còn được trình bày một
cách cập nhật trong nội dung giảng dạy ở nhà trường đại học. Có lẽ
chúng ta cũng nên suy nghĩ về điều này, vì khác với thái độ dè dặt của
giới đại học ở ta trước những hiện tượng văn học đương đại – mà đây
hoàn toàn chưa có gì gọi là "hậu hiện đại”, các nhà làm sách giáo khoa
ở Nga không muốn sinh viên của họ bỡ ngỡ và lạc hậu trước diễn biến của
dòng thời sự văn học.
Dẫn chứng cho điều này là trường hợp cuốn sách của I. Skoropanova nhan đề Văn xuôi hậu hiện đại Nga do
hai nhà xuất bản Flinta và Nauka liên kết ấn hành năm 1999, và được xem
như sách giáo khoa dành cho sinh viên, nghiên cứu sinh, giảng viên ngữ
văn các trường đại học tổng hợp và đại học sư phạm. Cuốn sách dày gần
600 trang này được cấu trúc gồm phần lý thuyết về chủ nghĩa hậu hiện
đại và phần lược sử về ba giai đoạn phát triển của văn học hậu hiện đại
Nga kể từ truyện vừa Những cuộc đi dạo với Pushkin của Abram Tertz (tác giả Natasha hay là câu chuyện mùa đông mà
bạn đọc Việt Nam đã từng làm quen qua bản dịch của Diễm Châu do nhà
xuất bản Trình Bầy ấn hành ở Sài Gòn năm 1967), được sáng tác với bút
danh Tertz-Sinjavski trong trại tập trung những năm 1966-1968 và được
xuất bản lần đầu ở Luân Đôn năm 1975. Tác phẩm hậu hiện đại gần đây
nhất được đề cập là cuốn tiểu thuyết viễn du mang đặc trưng "hậu hiện
đại sinh thái” của A. Bitov mang tên Những người gàn dở, được nhà văn khởi thảo từ năm 1969 và hoàn thành năm 1995.
Là một tài liệu giáo khoa, bên cạnh phần giới thiệu 27 tác giả và tác phẩm, cuốn Văn học hậu hiện đại Nga còn
cung cấp cho người đọc một số trích đoạn và danh mục các tác phẩm hậu
hiện đại đã xuất bản. Trong công trình này, người biên soạn đã giới
thuyết khái niệm "chủ nghĩa hậu hiện đại” như là: 1) một thời kỳ mới
trong sự phát triển văn hóa; 2) một phong cách của tư duy khoa học hậu
phi cổ điển; 3) một phong cách nghệ thuật mới, đặc trưng cho các loại
hình khác nhau của nghệ thuật đương đại; 4) một khuynh hướng nghệ thuật
mới trong kiến trúc, hội họa, văn học…; 5) những hệ thống thẩm mỹ-nghệ
thuật hình thành vào nửa sau thế kỷ XX; 6) những phản ứng về lý luận
trong triết học, mỹ học… đối với các hiện tượng nói trên. Thuật ngữ
"hậu hiện đại” hiện được dùng song song với thuật ngữ "hậu tiền phong”
và nhất là "hậu cấu trúc”, vốn được xem như cái nôi lý luận của nó [3].
Đụng chạm đến một vấn đề hóc búa và có tính chất thời sự rõ rệt, cuốn Văn học hậu hiện đại Nga
thiên về tính chất phê bình hơn là tính chất lý luận. Một trong những
công trình lý luận đúng nghĩa mà ở đó có thể tìm thấy sự tiếp nối
truyền thống và những thành tựu của lý luận văn học xô-viết lẫn nỗ lực
đổi mới cách tiếp cận, triển khai và giải quyết vấn đề là cuốn Lý luận văn học của
V. Khalizev. Công trình này do nhà xuất bản Đại học ấn hành năm 1999,
sau khi đã được sự nhận xét tích cực của giáo sư N. Ghei và của bộ môn
lý luận văn học trường đại học quốc gia Tversk do giáo sư I. Fomenko
làm chủ nhiệm. Cuốn sách cũng đã được Bộ giáo dục phổ thông và chuyên
nghiệp Liên bang Nga tiến cử làm sách giáo khoa cho sinh viên các
trường đại học.
V. Khalizev, giáo sư bộ môn lý luận văn học
khoa Ngữ văn Trường Đại học quốc gia Moskva, chính là một trong những
đồng tác giả của công trình Dẫn luận nghiên cứu văn học do
giáo sư G. Pospelov, nhà lý luận hàng đầu của Nga chủ biên. Cuốn sách
này đã được Trần Đình Sử, Lại Nguyên An, Nguyễn Nghĩa Trọng, Lê Ngọc
Trà dịch sang tiếng Việt và nhà xuất bản Giáo dục ở ta ấn hành năm
1985, tái bản năm 1998. Trong công trình ấy, V. Khalizev được phân công
viết chương "Văn học như một loại hình nghệ thuật” và 5 chương khác có
liên quan đến vấn đề phân loại văn học và đặc điểm của các tác phẩm tự
sự, kịch và trữ tình.
Lần này, đảm nhiệm biên soạn toàn bộ
một giáo trình, V. Khalizev đã kế thừa những luận điểm đã được thử
thách của lý luận văn học xô-viết về vấn đề chức năng, về mối quan hệ
giữa nội dung và hình thức, về cấu trúc tác phẩm, về sự phân chia các
loại thể, về tính quy luật của sự phát triển văn học… Đồng thời, tác
giả cũng đề cập hay đào sâu một số phương diện mà các giáo trình lý
luận loại này trước đây thường ít quan tâm, chẳng hạn nguyên lý đối
thoại của M. Bakhtin, chú giải học của G. Gadamer, quan niệm về văn bản
của R. Barthes và J. Derrida cũng như quan niệm về liên văn bản của J.
Kristéva…
Giáo trình này được mở đầu bằng chương bàn về bản
chất của nghệ thuật như là sự sáng tạo các giá trị thẩm mỹ. Nhận ra bản
chất thẩm mỹ của nghệ thuật và đặt văn học trong hệ thống các loại hình
nghệ thuật không phải là điều gì mới trong khoa nghiên cứu văn học
Xô-viết. Chúng ta chỉ cần nhớ đến một vài chuyên khảo như Bản chất thẩm mỹ của nghệ thuật của A. Burov (NXB Nghệ thuật, Moskva, 1956) hay Văn học như một loại hình sáng tạo nghệ thuật của I. Volkov (NXB Giáo dục, Moskva, 1985). Một vài giáo trình đã được dịch sang tiếng Việt như Dẫn luận nghiên cứu văn học nói trên hay Lý luận văn học của
N. Gulajev (Bản dịch của Lê Ngọc Tân, NXB Đại học và trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội, 1982) đều tiếp cận văn học như một loại hình nghệ
thuật. Cái mới trong giáo trình của V. Khalizev là tác giả chọn các
phạm trù thẩm mỹ làm điểm xuất phát và từ đó xác lập mối quan hệ giữa
cái thẩm mỹ và cái nghệ thuật. Bàn về hoạt động nhận thức của nghệ
thuật, tác giả trình bày không chỉ lý thuyết phản ánh mà cả lý thuyết
biểu trưng. Coi trọng văn học tinh hoa, văn học "cao cấp”, tác giả
không quên đề cập đến văn học đại chúng. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy
cuốn sách này lý giải vấn đề tiến trình văn học còn sơ lược và chưa
giới thiệu đầy đủ các khuynh hướng và trào lưu văn học trên thế giới [4].
Một
trong những trung tâm nghiên cứu về lý luận văn học vẫn giữ được uy tín
từ thời xô-viết đến nay là Viện Văn học thế giới mang tên M. Gorki
(viết tắt là IMLI) thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga. Ban Lý luận văn học
của Viện này tập hợp nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng như N. Ghei, J.
Borev, G. Belaja, S. Botcharov, V. Kozhynov, D. Urnov, I. Podgaetskaja,
N. Dragomiretskaja… Từ cuối những năm 80 thế kỷ trước, người đứng đầu
ban này là A. Mikhailov đã tích cực thúc đẩy hoạt động của ban đi vào
chiều sâu và giữ cho nó không bị gián đoạn ngay trong những thời điểm
khó khăn nhất. Là một nhà nghệ thuật học và văn hóa học, ông quan tâm
đến nhiều lãnh vực, trong đó có việc nghiên cứu những vấn đề thi pháp
học trong lịch sử văn học Đức. Ở một hội nghị do Hội đồng "Lý luận và
phương pháp luận trong nghiên cứu văn học và nghệ thuật học” – từ năm
1996 đổi tên thành Hội đồng "Khoa học về văn học trong bối cảnh khoa
học về văn hóa” – thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga tổ chức vào tháng
giêng năm 1993, A. Mikhailov đã trình bày báo cáo Đề cương về lý luận văn học và được đánh giá cao. Thật đáng tiếc là ông từ trần quá sớm, ở độ tuổi 60.
Để tưởng niệm A. Mikhailov, các đồng nghiệp của ông đã tổ chức một công trình tập thể mang tên Nghiên cứu văn học như một vấn đề do
nhà xuất bản Di sản ấn hành năm 2001. Cuốn sách đã ghi nhận những đóng
góp của ông trong nghiên cứu lịch sử văn học và nghệ thuật, đặc biệt là
ngành nghiên cứu âm nhạc, đồng thời phân tích những suy tưởng của ông
về con đường phát triển cuả lý luận văn học. Bên cạnh đó, công trình
cũng giới thiệu một số bài viết mới của các học giả ở IMLI, từ những
điểm nhìn khác nhau, bàn về phương pháp luận nghiên cứu văn học và văn
hóa. Trong số những bài đáng chú ý, có thể kể: Các phạm trù tính nghệ thuật và tính siêu nghệ thuật trong văn học (N. Ghei); Lý thuyết tác gia như một vấn đề (N. Smirnova); Nghiên cứu văn học như một huyền thoại (A. Galkin); Về nghiên cứu văn học, tính khoa học và tư duy tôn giáo (T. Kasatkina); Về triết học tôn giáo (S. Botsarov) [5].
Như
vậy có thể thấy, một mặt, các nhà lý luận đã mở rộng diện khảo sát của
mình và đặt văn học trong bối cảnh văn hóa để tìm ra những quy luật của
nó. Nhưng mặt khác, họ vẫn không ngừng đào sâu và hoàn thiện hệ thống
lý luận văn học đã được xây đắp từ mấy thập niên qua. Nhiều người hẳn
biết, bên cạnh các bộ giáo trình lý luận văn học được tập thể các nhà
giáo ở các trường đại học tổng hợp và đại học sư phạm biên soạn, từ
những năm 60 thế kỷ trước, những ai có quan tâm không thể không nhắc
đến bộ sách 3 tập Lý luận văn học. Những vấn đề cơ bản dưới sự soi sáng lịch sử (Nhà xuất bản Viện Hàn lâm khoa học Liên-xô, 1962-1965), công
trình tập thể của các nhà lý luận ở IMLI. Như tên gọi của nó, đặc điểm
của bộ sách này là các vấn đề lý thuyết luôn được trình bày trong sự
soi rọi, cọ xát với thực tiễn văn học Nga và thế giới, khiến cho nó
tránh được tính chất xơ cứng và tư biện. Trong bài phát biểu nhân dịp
kỷ niệm 70 năm thành lập IMLI (1932-2002), Viện trưởng F. Kuznetsov
đánh giá công trình này, mà các tác giả lúc đó hãy còn là những nhà
khoa học trẻ tuổi, "là một bước ngoặt trong lĩnh vực khoa học về văn
học ở thời đại mình và còn giữ được ý nghĩa khoa học từ đó đến nay”; đó
chính là một trong những công trình giúp cho IMLI "xác định vị trí hàng
đầu của nó trong lĩnh vực nghiên cứu văn học ở trong nước cũng như ở
nước ngoài” [6].
Nhưng công trình đó dù sao cũng đã được sử dụng qua gần bốn thập niên.
Từ ấy đến nay, thực tiễn văn học có nhiều thay đổi, mặt bằng lý luận
trong nước và trên thế giới đã được nâng lên, nhiều vấn đề và khía cạnh
cần được bổ khuyết, điều chỉnh. Chính vì vậy, bước vào thời kỳ cải tổ,
từ khi N. Ghei còn giữ nhiệm vụ trưởng ban lý luận của IMLI, các nhà
khoa học ở đây đã quyết định biên soạn một bộ lý luận văn học mới cho
những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Theo dự kiến, công trình
này gồm có 4 tập. Nhưng do việc thực hiện bản thảo không đồng bộ nên
tập 4 lại hoàn thành trước 3 tập kia và được xuất bản vào năm 2001.
Hiện nay trong tay chúng tôi chỉ mới có tập này, dày 620 trang chữ nhỏ,
với nhan đề Tiến trình văn học mà người chủ biên cũng đồng
thời là tổng chủ biên của bộ sách: giáo sư Yu. Borev. Ông là tác giả
của hàng chục đầu sách mỹ học và lý luận văn học, trong đó có cuốn đã
được dịch sang 33 ngoại ngữ… Từ 3 thập niên trước, bạn đọc Việt Nam đã
làm quen với cuốn Những phạm trù mỹ học cơ bản của ông qua bản dịch của giáo sư Hoàng Xuân Nhị do Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội xuất bản năm 1974.
Xem
tiến trình văn học như một phạm trù mỹ học và nghiên cứu văn học, các
tác giả đã cấu trúc tập 4 bộ lý luận văn học mới này thành 3 phần:
Phần
I dành để tìm hiểu những đặc điểm của tiến trình nghệ thuật và phương
pháp luận phân tích tiến trình này, gồm 2 chương. Chương 1 có nhan đề "Văn học như một hệ thống đang phát triển”,
trong đó bàn về sự phát triển nghệ thuật; vai trò của truyền thống
trong tiến trình văn học; những tác động nghệ thuật như là mối quan hệ
nội tại của tiến trình văn học; khuynh hướng nghệ thuật và quan niệm
nghệ thuật về thế giới và cá nhân; vấn đề phân kỳ lịch sử tiến trình
văn học; sự thay đổi cấu trúc tiến trình văn học trong thời kỳ quá độ.
Chương 2 khảo sát "Những tìm tòi về phương pháp luận và phương pháp luận hiện đại phân tích tiến trình văn học”
với những vấn đề được đề cập: nghệ thuật được hiểu như là trạng thái và
mầm mống của tư duy lịch sử; chủ nghĩa lịch sử với tư cách là nguyên
tắc nghiên cứu sự phát triển văn học; quan điểm so sánh tiến trình nghệ
thuật; quan điểm thực chứng ngôn ngữ học về sự phát triển nghệ thuật;
quan điểm hình thức luận và xã hội học dung tục về tiến trình văn học…
Phần II là phần trọng tâm của cuốn sách, được đặt tên "Lịch sử có tính lý luận của văn học”.
Các khuynh hướng và trào lưu văn học được sắp xếp trong những thời kỳ,
thời đại và giai đoạn khác nhau. Thời kỳ con người hiệp nhất với thiên
nhiên bao gồm thời thượng cổ, khi mà ma thuật và thần thoại đồng nhất
sự miêu tả với bản thân hiện thực; và thời cổ đại, trong đó nghệ thuật
cho thấy con người là một phần của tự nhiên, sống vất vả, vui sướng và
lo sợ một cách ngây thơ, chất phác trong thế giới của định mệnh.
Tiếp
đó là Thời Trung cổ, được xem như thời kỳ con người hiệp thông với
Thượng đế, nghệ thuật miêu tả con người trong thế giới của các tu viện,
nhà tu kín và thành phố. Điều này thể hiện trong chủ nghĩa lãng mạn
hiệp sĩ, chủ nghĩa tự nhiên các-na-van…
Thời Phục hưng được gọi
là thời kỳ của những niềm hy vọng và những ảo tưởng, bao gồm giai đoạn
chủ nghĩa nhân văn vinh danh con người tự do như giá trị tối thượng và
giai đoạn khủng hoảng của nó được đánh dấu bằng nghệ thuật ba-rốc.
Thời
cận đại thể hiện cuộc tìm kiếm những véc-tơ hành động của con người
trong thế giới, được chia thành giai đoạn hy vọng vào nghĩa vụ, chuẩn
mực và lý trí với chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực khai sáng và
giai đoạn hy vọng vào cảm xúc với chủ nghĩa tình cảm và chủ nghĩa lãng
mạn.
Điều đáng chú ý là các tác giả gộp chung thời đại của chủ
nghĩa tiền phong và thời đại của chủ nghĩa hiện thực vào chung "thời kỳ
vỡ mộng”. Thời đại tiền phong chủ nghĩa lại bao gồm các giai đoạn tiền
hiện đại (chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa tượng
trưng…); giai đoạn hiện đại (chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa lập thể, chủ
nghĩa trừu tượng, chủ nghĩa dã thú…); giai đoạn tân hiện đại (chủ nghĩa
đa-đa, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa hiện sinh,
văn học "dòng ý thức”, chủ nghĩa tân trừu tượng…) và giai đoạn hậu hiện
đại (chủ nghĩa hiện thực "phóng đại”, chủ nghĩa hiện thực "chụp ảnh”,
chủ nghĩa quan niệm…).
Các tác giả cho rằng thời đại của chủ
nghĩa hiện thực là thời đại con người chịu nhiều đau khổ, mất mát nhưng
vẫn đứng vững. Ở đây, chủ nghĩa hiện thực truyền thống là giai đoạn tìm
kiếm vận mệnh lịch sử của con người và của nhân loại, trong đó chủ
nghĩa hiện thực phê phán thế kỷ XIX miêu tả một thế giới và con người
không hoàn thiện và đề ra lối thoát là không dùng bạo lực để chống lại
điều ác và nỗ lực tự hoàn thiện bản thân. Còn chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa thì đề cao tính tích cực xã hội của con người trong việc
sáng tạo ra lịch sử bằng các phương pháp bạo lực cách mạng. Giai đoạn
hiện đại hóa chủ nghĩa hiện thực gồm chủ nghĩa tân hiện thực, chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo, chủ nghĩa hiện thực tâm lý, chủ nghĩa hiện thực trí
tuệ chứng tỏ con đường tìm kiếm những niềm hy vọng mới cho văn học vẫn
còn tiếp tục [7].
Nhằm
khắc phục phần nào cách nhìn "dĩ Âu vi trung” vẫn thống trị trong các
sách lý luận văn học từ trước đến nay, công trình này có thêm phần thứ
III trình bày sự phát triển văn học ở các nước không phải là châu Âu.
Điều đáng tiếc là do hạn chế về tư liệu, các tác giả chỉ mới đề cập đến
những vấn đề lý luận và lịch sử trong tiến trình văn học châu Phi, mà
chưa nói gì đến văn học châu Á và châu Đại dương. Đây có thể xem là một
món nợ chưa trả của các tác giả bộ sách lý luận này, vì thực tiễn văn
học phong phú ở các vùng đất ấy chắc chắn sẽ cung cấp những gợi ý có
tính chất định hướng, bổ sung và điều chỉnh cho hệ thống lý luận văn
học.
Mặc dù kết cấu chưa thật cân đối và nguồn tư liệu chưa
thật đa dạng, đây vẫn có thể được xem là công trình công phu và cập
nhật nhất về vấn đề tiến trình văn học hiện nay. Các tác giả tỏ ra
không thành kiến với các khuynh hướng và trào lưu phi hiện thực chủ
nghĩa và không đánh đồng chúng cùng trong một "cái bị” là các loại chủ
nghĩa hiện đại để tiện phê phán, như một số sách lý luận trước đây đã
làm. Những người biên soạn cũng tỏ ra trung thành với quan niệm viết lý
luận dưới ánh sáng của lịch sử văn học để tăng cường tính thực tiễn cho
lý luận. Chúng ta chờ đợi bộ sách 4 tập này được xuất bản trọn vẹn.
Trong
việc giới thiệu các quan niệm và trường phái lý luận, phê bình văn học
phương Tây, các nhà nghiên cứu ở Viện Thông tin khoa học xã hội thuộc
Viện Hàn lâm khoa học Nga có những thành tựu đáng kể. Mới đây, qua bản
dịch của nhóm dịch giả Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân, bạn
đọc Việt Nam đã tiếp cận một công trình của họ do nhà xuất bản Intrada
– INION ấn hành năm 1996 [8].
Gần đây hơn, năm 2001, họ lại cho xuất bản một tuyển tập các bài báo có nhan đề Khoa học về văn học trong thế kỷ XX (lịch sử, phương pháp luận, tiến trình văn học). Tham
gia vào cuốn sách này có những nhà nghiên cứu quen thuộc như A.
Khalizev, N. Pankov, I. Ilin, E. Tzurganova, A. Revjakina, G.
Nefaghina, E. Trushenko, I. Skoropanova… Cuốn sách được chia làm 2
phần. Trong phần "Lịch sử và phương pháp luận”, đáng chú ý có
những bài bàn về quan điểm của M. Bakhtin đối với chủ nghĩa hình thức;
về phương pháp khám phá nền văn hóa phi chính thống của ông trong
chuyên khảo Sáng tác của F. Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng;
về những cách tân trong khoa nghiên cứu văn học nước ngoài thế kỷ XX;
về chủ nghĩa hậu cấu trúc của R. Barthes; về chủ nghĩa hậu hiện đại và
tinh thần thời đại trong khoa nghiên cứu văn học phương Tây những năm
80… Phần "Tiến trình văn học” dành cho các bài khảo sát những
vấn đề thiên về lịch sử như: Chủ nghĩa hiện sinh trong ý thức nghệ
thuật thế kỷ XX; Phân tích thi pháp huyền thoại trong thơ ca thế kỷ
bạc; Thơ ca Nga ở hải ngoại; Về lịch sử khái niệm "chủ nghĩa hiện thực
xã hội chủ nghĩa”; Sự chuyển biến của các dòng phong cách trong văn
xuôi hiện thực Nga những năm 80-90; Văn học hậu hiện đại Nga những năm
90…[9]
Trên
lãnh vực giới thiệu những thành tựu trong sáng tác và lý luận thế kỷ
XX, các học giả ở IMLI cũng có những đóng góp mới của mình. Năm 2002 họ
đã cho xuất bản một công trình tập thể mang tên Những định hướng nghệ thuật trong văn học nước ngoài thế kỷ XX. Nếu so với một công trình cá nhân cùng loại đề tài trước đây như cuốn Những định hướng nghệ thuật thế kỷ XX của
D. Zatonski (NXB Nhà văn xô-viết, Moskva, 1988) chẳng hạn, thì công
trình mới này cung cấp cho người đọc một khối lượng kiến thức lý luận
thời sự và cấp thiết hơn nhiều. Danh mục các bài viết trong cuốn sách
dày gần 570 trang này nói với ta điều đó: Quan niệm về truyền thống
trong văn học thế kỷ XX; Phong cách tiền phong trong văn hóa; Chủ nghĩa
nguyên thủy; Dòng ý thức; Viết tự động; Những hình thức ngụ ý trong
tiểu thuyết thế kỷ XX; Những ẩn dụ trong nghệ thuật ba-rốc và chủ nghĩa
cổ điển; Huyền thoại trong văn học thế kỷ XX; Cái bi kịch trong nghệ
thuật thế kỷ XX; Thế giới của tiếng cười; Cái nghịch dị trong các nền
văn học phương Tây; Chiều kích văn học của cái phi lý; Tính liên văn
bản…[10]
Những
nỗ lực được dẫn chứng còn sơ lược trên đây diễn ra trong một hoàn cảnh
rất khó khăn của giới trí thức Nga sau khi Liên Xô tan rã. Dưới thời B.
Eltsin, kinh phí dành cho khoa học cơ bản bị cắt giảm tới 30 lần, làm
hạn chế rất lớn đến sự phát triển của văn hóa, khoa học và giáo dục.
Ngoài ra, như sự ghi nhận của phó giáo sư, tiến sĩ A. Sokolov, đời sống
văn hóa Nga còn đứng trước một tình hình không thuận lợi khác: "Đáng
tiếc, phải thừa nhận là đời sống tinh thần đang có phần bị làn sóng
phản văn hóa xâm lấn. Truyền hình trở thành thứ nghệ thuật chính, làm
hỏng lớp trẻ vì khiến chúng lười suy nghĩ. Trước đây chúng tôi sống
trong một đất nước ham đọc. Ở đó sách là vật thiêng liêng. Bây giờ phần
đông mọi người không phải là độc giả, mà là khán giả. Và điều xảy ra
là: ai xuất hiện trên ti-vi nhiều, kẻ đó sẽ nắm được đầu óc mọi người
(…) Từ một nước ham đọc, chúng tôi dần dần biến thành một nước tiêu
dùng nghệ thuật. Các nhà văn và nhà hoạt động văn hóa hiện nay phải
nhường chỗ của mình" [11].
Sự
sa sút của văn hóa đọc có thể được minh họa bằng sự sút giảm số lượng
ấn bản sách văn học có giá trị, khi mà nền xuất bản không còn được bao
cấp như trước. Một tác gia tầm cỡ như V. Rasputin may ra mới có thể
được in một tuyển truyện khổ sách nhỏ với tirage 1 vạn bản.
So với dưới thời xô-viết, con số này giảm gấp hàng chục lần. Tình hình
ấy càng thấy rõ trong khu vực sách khảo cứu, lý luận.
Thử làm một so sánh: cuốn Lý luận văn học của N. Gulajev in năm 1977 với 50.000 bản; cuốn Lý luận văn học của G. Pospelov in năm 1978 đến 75.000 bản; còn cuốn Lý luận văn học nói
trên của V. Khalizev chỉ 10.000 bản; tuy cả ba đều do nhà xuất bản Đại
học và đều được xem là sách giáo khoa. Hai năm 1993-1994, khi tái bản
loạt sách M. Bakhtin dưới mặt nạ, để phát hành hết 5.000 bản, nhà Alkonost phải chọn in giấy xấu, bìa mỏng nhằm giảm giá thành. Cuốn Sử thi và tiểu thuyết do V. Kozhynov viết lời nói đầu, S. Botsharov biên soạn và chú thích dựa theo văn bản trong Toàn tập Bakhtin gồm 7 tập, nhà xuất bản Azbuka in năm 2000 với số lượng 10.000.
Trong khi đó, các tài liệu giáo khoa khác in bằng loại giấy tương tự, như Văn học hậu hiện đại Nga của I. Skoropanova hay Những nguyên tắc và thủ pháp phân tích tác phẩm văn học của
A. Esin (Nhà xuất bản Flinta – Nauka tái bản, 1999), cũng chỉ ấn hành
không quá 3.000 bản. Gần đây, tình hình này dường như càng ít khả quan
hơn, nhất là với các công trình được biên soạn ở ngoài nhà trường đại
học. Hai cuốn Nghiên cứu văn học như một vấn đề và Tiến trình văn học cùng của IMLI và cùng in năm 2001 được xếp đồng hạng: 1.000 bản. Số phận một vài công trình khác còn hẩm hiu hơn: Những định hướng nghệ thuật trong văn học nước ngoài thế kỷ XX – 800 bản ; Vấn đề chủ nghĩa đa văn hóa và văn học Hoa Kỳ cuối thế kỷ XX của M. Tlostanova (Nhà xuất bản Di sản, 2000) – 500 bản; còn Khoa học về văn học trong thế kỷ XX (lịch sử, phương pháp luận, tiến trình văn học) thì vẻn vẹn 300 bản.
Tuy vậy, không thể dựa vào tirage để
khẳng định chất lượng và ý nghĩa khoa học của các công trình. Như viện
sĩ F. Kuznetsov đã nhận định, "khoa ngữ văn học là một khoa học đòi hỏi
nhiệt tâm. Với mức lương ít ỏi cho lao động của chúng ta, những thành
tích chỉ có thể có được nhờ vào sự cố gắng của những người tích cực. Và
tất nhiên cả của những chuyên gia có trình độ chuyên môn cao; thường
thì hai loại người này là một, vì những kẻ thờ ơ không khi nào trở
thành nhà khoa học lớn được”. Những thành tích đó còn bắt nguồn từ ý
thức rằng "cần phải kết hợp mọi người trên những nguyên tắc mới, nắm
được phương pháp luận mới và những mối quan hệ hợp tác mới trong giới
khoa học, học biết cách kiềm chế, khoan dung, biết cách tranh luận có
văn hóa, tránh lối đánh giá cực đoan và thô bạo, áp đặt cho nhau những
chủ thuyết này nọ; khắc phục sự khác biệt về thế giới quan, tìm kiếm
cách nhìn mới đối với tiến trình văn học” [12].
Trong
điều kiện hết sức hạn chế về tư liệu, bài viết này muốn cung cấp cho
bạn đọc một ít thông tin từ những công trình lý luận văn học được xuất
bản ở Nga những năm gần đây mà chúng tôi may mắn tiếp cận được. Chắc
chắn trong khoảng thời gian đó còn nhiều đầu sách giá trị khác trên
lĩnh vực này đã ra đời ở các trung tâm khoa học của nước Nga, nhưng
chưa dễ dàng đến được với bạn đọc Việt Nam có quan tâm, do những cách
trở về giao lưu văn hóa giữa hai nước chúng ta hiện nay. Vì vậy, đây
chỉ là một góc rất nhỏ trong bức tranh toàn cảnh của đời sống lý luận
văn học Nga những năm bản lề giữa hai thế kỷ.
Tạp chí Văn học nước ngoài số 2, Hà Nội, tháng 3&4-2005.
|