Lý luận văn học trên đường hội nhập và phát triển
GS.TSKH Phương Lựu
Đại học Sư phạm Hà Nội Mấy
mươi năm qua thật ra cũng không phải chỉ vì do đổi mới tư duy, mà còn
phải kể đến bối cảnh hoà bình, chứ trong chiến tranh, lý luận văn học
dù có muốn hội nhập rộng rãi cũng khó thực hiện. Chứng cớ gián tiếp là
lý luận văn học cách mạng ở Việt Nam vốn theo chủ nghĩa Mác – Lênin,
nhưng trước năm 1975 giới nghiên cứu nước nhà cũng chưa hề có được bất
cứ chuyên khảo nào giới thiệu một cách hệ thống tư tưởng văn nghệ của
các tác gia kinh điển. Vào cuối những năm 50, đầu những năm 60, Nhà
xuất bản Sự thật đã tập hợp và công bố những bài nghiên cứu dài hơi của
Jean Fréville về lý luận văn nghệ của Marx, Engels, Lénine, vốn là
những bài tổng quan kèm trong những tuyển tập Karl Marx, Friedrich Engels sur la littérature et l’art; V.I. Lénine sur la littérature et l’art (Éditions sociales, Paris 1954, 1975). Phải chờ đến sau ngày đất nước thống nhất, mới lần lượt xuất hiện Học tập tư tưởng văn nghệ V.I. Lênin của Phương Lựu (1979); Mác, Anghen, Lênin và một số vấn đề lý luận văn nghệ của
Hà Minh Đức (1982). Nhưng tất nhiên căn nguyên từ đổi mới tư duy là
quan trọng nhất. Điều này cũng có một chứng cớ gián tiếp khác là tuy
trong hoàn cảnh chiến tranh dai dẳng và vô cùng ác liệt như vậy, nhưng
những bài viết về đường lối văn nghệ của Đảng thì nhiều vô kể, từ đó đã
cô đúc lại thành những chuyên khảo thì cũng không ít như của Hoàng Xuân
Nhị, Hà Xuân Trường, v.v... nhưng nhìn chung đều nặng về tuyên truyền
giáo dục, chứ chưa chứa đựng được nhiều hàm lượng học thuật. Tất nhiên
điều này có mang tính "hợp lý lịch sử”. Song lịch sử không đứng yên, mà
là một dòng chảy không ngừng nghỉ, cho nên đến lúc không thể không thay
đổi để tư duy hàm chứa cho được những bước tiến mới của lịch sử. Cụ thể
trên vấn đề này là phải từ đường lối văn nghệ của Đảng nói riêng hay từ
lý luận văn nghệ Mác – Lê nin nói chung, mở rộng ra đến di sản và thành
tựu về lý luận văn học nghệ thuật của dân tộc và nhân loại. Cho nên nói
lý luận văn học đương đại Việt Nam
trên con đường hội nhập với thế giới không phải là một chiều độc hành
mà là song hành với việc trở về với di sản của dân tộc. Hội nhập không
tách rời với "tự hội nhập”, nếu không muốn nói càng hội nhập với nhân
loại bao nhiêu thì lại càng cần thiết và có thể "tự hội nhập” với
truyền thống dân tộc bấy nhiêu. Quả vậy, hơn hai mươi năm qua, thì lần
đầu tiên đã xuất hiện công trình về di sản lý luận văn học cổ điển của
dân tộc như Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam của Phương Lựu (1997). Còn về thời hiện đại, có thể kể Lý luận phê bình văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX của Trần Mạnh Tiến (2002); Lý luận phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX – 1945 do Nguyễn Ngọc Thiện chủ biên (2005); Nhìn lại nửa thế kỷ lý luận hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Phương Lựu (1999). Riêng Lý luận phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX của Trần Đình Sử, tuy chỉ là một chương trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX (2004),
nhưng khá dài hơn 100 trang khổ lớn, và lần đầu tiên đã đề cập đến vấn
đề này xuyên suốt cả thế kỷ. Ngoài ra không thể quên nhắc đến hàng chục
luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ viết về cả giai đoạn như Lý luận phê bình văn
học thời kỳ 1930-1945, về các nhà lý luận phê bình từ cổ chí kim như Lê
Quý Đôn, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Xuân Diệu, Lương Đức Thiệp, Nguyễn
Xuân Huy, kể cả ở các đô thị miền Nam thời chống Mỹ, mặc dù với những
khuynh hướng khác nhau như về Vũ Hạnh, Nguyễn Văn Trung, v.v... Qua đây
không khó thấy, muốn viết cho sát đúng về lý luận văn học Việt Nam thời
trung đại không thể không nắm chắc lý luận văn học cổ điển Trung Hoa,
cũng như viết về lý luận văn học nước nhà thế kỷ XX không thể không
hiểu biết về lý luận văn học hiện đại phương Tây và Nga – Xô viết như
sẽ thấy những dẫn chứng ở sau. Cho nên vấn đề hội nhập với thế giới
được trình bày cụ thể tiếp theo dưới đây, thật ra là một nhu cầu nội tại của lý luận văn học dân tộc ngay ở việc tự phát hiện di sản và thành tựu của chính mình.
*
Sự hội nhập với thế giới hơn hai mươi năm qua của lý luận văn học đương đại Việt Nam,
thật ra cũng không hề có chuyện quay lưng lại với các "đối tác truyền
thống”. Như về lý luận văn học Xô viết, trước đây chỉ thiên về những
thành tựu có tính chất chính thống, nhưng sau này rất chú ý đến những
thành tựu lý luận đột xuất vốn không được coi trọng lắm mà ngày nay đã
trở thành di sản quý báu không những của Nga, mà còn của cả thế giới.
Có thể kể về Bakhtin, thì có Lý luận và thi pháp tiểu thuyết do Phạm Vĩnh Cư dịch (1992); Những vấn đề về thi pháp Dostoevsky do Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch (1993). Hay về Lotman, thì có Cấu trúc văn bản nghệ thuật do Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thuỷ dịch (2004). Không những dịch mà còn có những công trình nghiên cứu như Trường phái hình thức Nga của Huỳnh Như Phương (2007). Về lý luận văn học Trung Quốc thời cải cách thì có Phê bình văn học Trung Quốc đương đại do
Trần Minh Sơn dịch (2004). Nói rộng ra về tư tưởng văn nghệ mác-xít,
thì tuy vẫn kiên trì mỹ học Mác – Lênin, nhưng cởi mở hơn, không như
trước hoàn toàn phủ nhận cho là "chủ nghĩa xét lại”, những quan niệm
của Lukacs, Garaudy, Fischer, Lefèbvre, v.v... mà thực chất họ là "chủ
nghĩa Mác phương Tây” (Western marxism), tuy không theo chủ nghĩa
Lênin, nhưng vẫn mang tính chất mác-xít với nhiều nội dung khả thủ như
đã thấy qua Tư tưởng văn hoá văn nghệ của chủ nghĩa Mác phương Tây của Phương Lựu (2007).
Hội
nhập với thế giới không phải chỉ là với những thành tựu hiện đại, mà
còn với di sản quá khứ, không phải với phương Tây, mà cả với phương
Đông vốn có nhiều gắn bó với lý luận văn học truyền thống Việt Nam. Về
tư liệu gốc, có Tuỳ viên thi thoại của Viên Mai do Nguyễn Đức Vân dịch (1999); Văn tâm điêu long
của Lưu Hiệp do Phan Ngọc dịch (1997), v.v... Về mặt nghiên cứu, thì
cũng như các vấn đề khác, ít nhiều cũng có những bài viết, nhưng ở đây
chỉ kể những chuyên khảo như Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc của Phương Lựu (1989); Thi pháp học cổ điển Ấn Độ
của Phan Thu Hiền (2006). Không thể không nói là còn quá ít, khi chỉ
mới liên tưởng với trước thời Đổi mới, mà lý luận văn học cổ điển
phương Tây cũng đã được dịch và giới thiệu từ Aristote, qua Diderot,
Lessing, đến Hégel và Sernysevsky. Thật ra lý luận văn học cổ điển
Trung Hoa, Ấn Độ không phải chỉ thiết thân với giới lý luận phương
Đông, mà nó đã trở thành một trong hai thành tựu lý luận quan trọng của
cả thế giới bên cạnh lý luận văn học hiện đại phương Tây. Vì một lẽ
giản đơn là nơi đây đã hàm chứa hai trong ba chiếc nôi lớn của văn minh
của loài người, di sản lý luận văn học ở đây, do đó là vô cùng lâu đời,
phong phú và liền mạch chứ không đứt đoạn bởi thời Trung cổ như ở
phương Tây. Điều lý thú hơn là do lối tư duy trực cảm tổng hợp, nó đã
nêu ra những vấn đề về mỹ học và lý luận nghệ thuật, mà sau này lý luận
hiện đại phương Tây mới ra sức chứng giải. Thí dụ dòng Thi học Phật Lão
ở Trung Hoa vốn đã nêu ra nhiều quan niệm rất tương đồng với lý thuyết
sau này của Mallarmé, Baudelaire, Verlaine về tính chất tượng trưng, ám
thị, trực giác phi lý tính, sự chan hoà giữa chủ thể và đối tượng, về
tính nhạc siêu thăng trong thơ văn, v.v... Hay chủ nghĩa hình thức Nga
có nêu ra khái niệm "lạ hoá” (estrangement), thật ra là rất tương đồng
với khái niệm "Vakrokti” (sự biểu đạt uốn lượn) của Kuntala, nhà thi
học thế kỷ XII của Ấn Độ v.v...
Nói
dịch thuật và giới thiệu lý luận văn học cổ điển phương Đông còn ít
không hề dẫn đến cái lôgic cho rằng việc dịch thuật, giới thiệu lý luận
văn học hiện đại (kể cả hậu hiện đại) phương Tây rầm rộ nhất trong hơn
hai mươi năm qua là quá nhiều, thậm chí phải nói
ngược lại là chưa thấm tháp vào đâu. Bởi vì dù sao nó là một hiện tượng
đương thời, rất hoành tráng lại đang lan toả trên toàn thế giới, mà nếu
đến nay chúng ta mới chỉ là thành viên của khối Asean thôi, thì đã phải
thông lưu với phương Tây rồi, huống chi là ngay từ thời đầu đổi mới
chúng ta đã tâm nguyện làm bạn với tất cả các nước. Nhưng cho dù tất cả
đều quan trọng như nhau, thì cái nào có thể giải quyết dần trước cứ
tiến hành, rồi sẽ đến lượt các mảng khác, không níu kéo dàn hàng ngang
máy móc. Khách quan mà nói trong thời buổi này phải tập trung nhiều hơn
cho phương Tây hiện đại có phần bức bách nhiều hơn, vì ở đây còn có
nguyên nhân từ "tâm lý đối ứng”! Bởi vì trước đây trong một thời gian
dài, lý luận văn học hiện đại phương Tây thường bị quy là duy tâm, phản
động, ngày nay nhìn lại những quan niệm này ít nhiều đều có căn cứ,
mang nhiều "yếu tố hợp lý”, chỉ bị thổi phồng bơm to, cực đoan hoá ở
cấp độ hệ thống mà thôi. Và bởi vì nó vốn hàm chứa rất nhiều trường
phái, cho nên lại có thể cung cấp nhiều "yếu tố hợp lý” cho nền lý luận
của chúng ta. Nhưng cũng chính vì mảng này đã được tiến hành nhiều, cho
nên cũng đã có không ít bài viết kiểm kê sơ kết lại, do đó không cần
thiết phải kể lể cụ thể tỉ mỉ thêm nữa. Ở đây tôi chỉ xin tạm phân loại
một cách tương đối như sau: Trước hết là việc dịch thuật như bản dịch
của Nguyên Ngọc riêng về công trình Văn học là gì? của J.P.
Sartre (1999) v.v... Cách làm này có tác dụng tốt cho bạn đọc được tiếp
xúc toàn diện nguyên ý của tác giả. Nhưng hiểu cho hết cũng không phải
dễ, cho nên phải kết hợp giữa tư liệu dịch với việc giới thiệu phân
tích, đánh giá sơ bộ trên từng trường phái. Chẳng hạn như việc làm của
Đỗ Lai Thuý trong Nghệ thuật như là thủ pháp (2001) hay của Trịnh Bá Đĩnh qua Chủ nghĩa cấu trúc và văn học (2002). Tập đại thành về mặt này là công trình Lý luận phê bình văn học thế giới thế kỷ XX
do Lộc Phương Thuỷ chủ biên (2007), nhưng cũng chỉ mới tiếp cận được
một số trường phái là Phê bình mới, Chủ nghĩa cấu trúc và ký hiệu học,
Chủ nghĩa hậu hiện đại, Phân tâm học, Hiện tượng luận. Tất nhiên, trên
một ý nghĩa nào đó, cách làm này cân đối hơn cả, nhưng phải là một quá
trình lâu dài. Trong lúc đó, lý luận văn học hiện đại vô cùng phong
phú, phức tạp, chỉ mới tập trung giới thiệu được năm ba trường phái, về
mặt khách quan ít nhiều cũng dễ làm cho người ta ngộ nhận nền lý luận
thế kỷ XX của phương Tây, thậm chí của thế giới, chủ yếu chỉ có thế.
Hơn nữa giữa các trường phái với nhau lại có những mối liên hệ chằng
chịt giao thoa hoặc đối lập, chưa biết cái này thì cũng không hiểu đúng
cái kia. Cho nên cần phải có cái nhìn toàn cảnh, nhất là trong nhà
trường, miễn là phải nêu cho được mọi điều thiết yếu với sự phân tích
đánh giá bước đầu, như chúng tôi đã nỗ lực thực hiện qua công trình Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX (2001).
*
Hội
nhập đã đành không phải là trong thế bị động, mà cũng không phải là câu
chuyện "thời thượng”. Mục đích nếu không phải là duy nhất, thì cũng cao
nhất của nó là để phát triển cả ngành nghiên cứu văn học của chúng ta
như đã quán triệt trong công trình Nghiên cứu văn học – lý luận và ứng dụng
của Nguyễn Văn Dân (1998). Nhưng cũng có thể nói thêm không phải chỉ
ứng dụng vào việc nghiên cứu văn học nước nhà, mà cả với văn học nước
ngoài nữa, bởi vì một khi chúng ta đã nắm được phương diện lý luận thì
càng lý giải được thấu đáo hơn nhà văn và tác phẩm của chính họ. Nhưng
việc vận dụng lý luận nước ngoài vào văn học trong nước cũng bao gồm
tất cả các mặt sáng tác, nghiên cứu, phê bình, lý luận. Không thể quên
sáng tác, bởi vì không hiếm nhà văn chúng ta do phần lớn không nắm
ngoại ngữ phải đua nhau tìm đọc những sách báo dịch thuật hoặc giới
thiệu mỹ học của chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, v.v... Riêng trong
nghiên cứu, phê bình đều gắn với những tác phẩm cụ thể, thì có thể thấy
hiện tượng vận dụng lý thuyết của một trường phái lý luận nhất định để
triển khai vấn đề. Như về Phân tâm học, thì ngoài Phân tâm học và văn hoá nghệ thuật (1999), Đỗ Lai Thuý đã vận dụng cụ thể thành công trình Hồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực (1999). Về Văn học so sánh, thì ngoài Từ Văn học so sánh đến Thi học so sánh (2002), chúng tôi có sự vận dụng cụ thể trong công trình Văn hoá, văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam (1996). Và có thể kể công trình tập thể Văn học so sánh, lý luận và ứng dụng
do Lưu Văn Bổng chủ biên (2000). Nhưng tiêu biểu nhất về mặt này là
những công trình về thi pháp của Trần Đình Sử. Thật ra thi pháp học của
tác giả này không hẳn là của một trường phái xác định, mà là đa nguyên
về mặt nguồn gốc. Nó có thể khởi đầu bằng lý luận thi pháp trong phần
tinh hoa của lý luận văn học Xô viết (tác giả có tham gia dịch Những vấn đề thi pháp của Dostoevsky của
Bakhtin), nhưng về sau ngày càng thu lượm được những khía cạnh thi pháp
học trong các trường phái khác như thi pháp cấu trúc – ký hiệu học, thi
pháp lịch sử, chủ nghĩa hình thức Nga, Phê bình mới, Phân tâm học, Hiện
tượng học, v.v... như có nhắc đến trong công trình có tính chất lý luận
chung là Dẫn luận thi pháp học (1996). Chính vì hút nhụy từ
nhiều tinh hoa như vậy (tất nhiên không bao giờ có thể tận nguồn), cho
nên thi pháp học ở Trần Đình Sử mang một xung lực mạnh. Nó có thể và đã
triển khai sự vận dụng vào việc nghiên cứu văn học nước nhà trên cả ba
cấp độ. Cấp độ tác phẩm: Thi pháp Truyện Kiều (2001). Cấp độ tác giả (toàn bộ sáng tác của một tác giả): Thi pháp thơ Tố Hữu (1987). Cấp độ một giai đoạn văn học sử: Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam (1999). Tuy là ở ba cấp độ vận dụng, nhưng ở mỗi cấp độ lại còn vẫn chứa đựng thêm những khía cạnh lý luận tương ứng.
Tuy
gắn với các vấn đề đã nêu trên, nhưng hội nhập với lý luận thế giới chủ
yếu nhất là nhằm phát triển, đổi mới lý luận văn học nước nhà. Song lý
luận văn học cũng có hai bình diện lịch sử và lý thuyết. Về mặt lịch
sử, thì những công trình từ Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam đến Nhìn lại nửa thế kỷ lý luận hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
đều không thể hoàn thành được nếu không nắm vững được ở mức độ tối cần
thiết lý luận văn học cổ điển Trung Hoa và lý luận văn học Xô viết từ
hai mặt tinh hoa và hạn chế của chúng. Ở bình diện lý thuyết có hai cấp
độ là yếu tố và hệ thống. Ở cấp độ yếu tố tức là những khái niệm, phạm
trù, vấn đề, thì việc hội nhập với lý luận văn học thế giới để phát
triển, đổi mới, có thể và đã thực hiện ở dạng chuyên đề và cơ bản về
mặt kiến thức. Ở dạng chuyên đề có thể kể Tiếp nhận văn học của Phương Lựu (1997), nhất là công trình Tác phẩm như là quá trình
của Trương Đăng Dung (2004) đã vận dụng Giải thích học và Mỹ học tiếp
nhận để triển khai vấn đề tác phẩm luôn luôn biến đổi trong sự tiếp
nhận đầy sáng tạo chủ động của người đọc theo dòng chảy thời gian. Thật
ra bất kỳ khái niệm hay vấn đề cụ thể gì của lý luận văn học cũng đều
cần có những dạng chuyên đề như thế này, nhưng phải chờ đợi cho đầy đủ
thì gần như vô hạn. Vả chăng trong lý luận văn học, khái niệm phạm trù
là vi mô, nhưng trong vi mô có vĩ mô. Chúng tôi muốn nói tuy là ở những
vấn đề, khái niệm, phạm trù cụ thể, nhưng cũng không khơi nguồn ở một
trường phái duy nhất, mà vẫn nên là ở nhiều trường phái, nhiều khuynh
hướng, miễn là vốn có những khía cạnh tương ứng. Ngay ở dạng cơ bản,
điều này cũng thể hiện trong không ít bài viết đăng trên các báo và tạp
chí. Nhưng do thiên chức phải thuyết giảng một cách bài bản, hệ thống
những khái niệm và phạm trù, dù muốn hay không, các giáo trình buộc
phải tập trung thể hiện điều này. Một trong những biểu hiện về cải tiến
và nâng cao của giáo trình Lý luận văn học mấy mươi năm qua là dần dần
đi sâu hơn vào hai chủ thể sáng tác và tiếp nhận (nhà văn và bạn đọc)
mà ở đây chỉ xin lướt qua một vài khía cạnh.
Về
tư duy nghệ thuật của nhà văn, trước đây chỉ thấy tư duy hình tượng,
nay được chứng minh đó chỉ mới là cơ sở, nó còn hàm chứa những yếu tố
của các loại tư duy khác như thể nghiệm, lôgic đa trị, trực giác, vô
thức, v.v... để tạo cho được một loại tư duy mang tính chỉnh thể, mở ra
những khả năng tối đa cho việc xây dựng những hình tượng sinh động và
sâu sắc về cuộc đời muôn mặt. Để đi đến kết luận đó, đã phải khai thác
những quan niệm và ý kiến từ nhiều nguồn khác nhau. Như về vấn đề thể
nghiệm là được kết tinh từ ý kiến của Mác trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, của Lênin trong đối thoại với M. Gorky, của Kim Thánh Thán trong lời bình về Thủy hử,
v.v... Còn về lôgic đa trị mơ hồ, thì tất nhiên có khơi nguồn từ môn
Fuzzy lôgic, kể cả ngành Toán tập mờ của I.A. Zadec, nhưng sát sườn hơn
là từ quan niệm của nhà thi học Nghiêm Vũ đời Tống đến ý kiến của W.
Empson, nhà Phê bình mới người Anh. Còn yếu tố trực giác thì không phải
chỉ là sự thu hoạch từ mỹ học trực giác H. Henri Bergson, mà còn từ mỹ
học "Hoán hình” (Gestalt) của R. Arnheim. Và về yếu tố vô thức thì là
kết quả vận dụng tổng hợp giữa Tâm phân học (Psychoanalysis) của S.
Freud với Phân tâm học (Analytical psychology) của K. G. Jung, v.v...
Về
bạn đọc với tư cách là chủ thể tiếp nhận, thì tất nhiên có khai thác
nhiều ở Mỹ học tiếp nhận của trường phái Konstanz, nhưng còn có cả ở
Phê bình theo phản ứng bạn đọc (Reader reponse criticism) của J.
Culler, Mỹ học hiện tượng luận của R. Ingarden, Giải thích học văn học
của Gadamer, Xã hội học văn học của R. Escarpit, kể cả ý kiến của các
nhà văn và nhà lý luận phương Đông, trong đó có Việt Nam ta như Lưu
Hiệp, Kim Thánh Thán, Nguyễn Hành, Tố Như, v.v... Qua đây mới có thể
triển khai đầy đặn những vấn đề như bạn đọc không đơn thuần chỉ là bạn
đọc thực tế với chức năng "cộng đồng sáng tạo” vẫn mang tính chất xã
hội học, mà còn là "bạn đọc tiềm ẩn” (implied reader) nằm ngay trong
cấu trúc văn bản nghệ thuật, thuộc phạm trù mỹ học. Ngay cái gọi là
"cộng đồng sáng tạo” của bạn đọc thực tế, thật ra cũng cần phân biệt
thành hai dạng "chính ngộ” và "phản ngộ” (đều không trúng với nguyên ý
của tác giả, nhưng có hay không có căn cứ trong văn bản), và cái gọi là
"chính ngộ” cũng được thể hiện trên nhiều nấc thang như đồng cảm, thanh
lọc, bừng tỉnh, ghi tạc, v.v... (Phương Lưu chủ biên, Lý luận văn học, tập I, 2002).
Tất
nhiên, dù là ở mức độ cơ bản hay chuyên đề, thì vẫn còn dừng lại ở cấp
độ yếu tố mà thôi. Còn việc hội nhập để phát triển lý luận văn học ở
cấp độ hệ thống, thì phải nói thực rằng chúng ta chưa làm được gì
nhiều. Mà xây dựng hệ thống lý luận văn học cũng với lắm mô hình và
định hướng cơ bản: Bản thể luận hay nhận thức luận? Văn học chức năng
hay văn chương thuần túy? Hình thái ý thức hay nghệ thuật ngôn từ?
Chuyển hướng về ngôn ngữ và thể loại hay sang hẳn văn hóa? Xem ra đây
còn là câu chuyện dài dài mà cũng không phải của riêng ai1
|